Du lịch trở lại 0
Một cuộc khủng hoảng chưa từng có đối với ngành du lịch Việt Nam.
Những ngày giữa tháng 3, nhân viên các hãng lữ hành khắp Việt Nam không khỏi vui mừng khi thấy khách hàng liên tục vào quầy truy vấn. Bởi lẽ, 99% khách đến vào thời điểm này đều hủy tour. Cũng trong những ngày này, 500 nhân viên của một hãng lữ hành lớn tại TP.HCM bị mất việc làm, trong khi các công ty lữ hành khác cũng trong tình trạng tê liệt hoàn toàn. Cục Hàng không Việt Nam cũng ước tính, doanh thu hàng không nội địa dự kiến sẽ giảm 25.000 tỷ đồng trong năm 2020. Các hãng hàng không có thể “về 0” sau nhiều năm tích cóp, lùi 3-4 năm khi dịch bệnh xảy ra. dịch bệnh qua biên giới Trung Quốc.
Hoàn toàn đóng băng!
Kể từ khi ra đời cách đây gần 30 năm, ngành du lịch Việt Nam chưa bao giờ chứng kiến một cuộc khủng hoảng như vậy! Ngày 18/3, khi Chính phủ tạm dừng cấp visa cho người nước ngoài để kiểm soát dịch COVID-19, giám đốc một số công ty lữ hành ở cả 3 thị trường: inbound (đưa khách quốc tế vào Việt Nam), outbound (đưa khách Việt ra nước ngoài), nội địa (khách Việt Nam đi du lịch trong nước) đồng loạt tuyên bố: “Hoạt động thương mại bị đóng băng hoàn toàn!”. Giám đốc một hãng lữ hành bật khóc cho biết 95% khách đến đơn vị sợ dịch nên hủy tour, yêu cầu đóng tiền cọc.
Tại hầu hết các công ty, khách đến hủy tour đặt đến tháng 9/2020, khách ngoài hủy tour đặt đến tháng 6/2020, khách nội không đặt tour trước cũng hủy toàn bộ. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nếu dịch kết thúc trong quý I, ngành du lịch có thể thiệt hại khoảng 2,3 tỷ USD, nhưng nếu dịch kéo dài đến hết quý II, thiệt hại sẽ là 5 tỷ USD. . Có thể hình dung những con số này qua khung cảnh vắng lặng ở các điểm du lịch Nha Trang những ngày giữa tháng 3. Nhiều nhà hàng, khách sạn lớn nhỏ trên các tuyến đường chính của Nha Trang thường xuyên trở nên hoang vắng. Ít ai có thể ngờ đến tình trạng như vậy khi trước đó, hơn 7,2 triệu lượt khách đến Khánh Hòa trong năm 2019 đã mang lại nguồn thu du lịch cho tỉnh này lên đến 27 tỷ đồng. Ông. Ông Hoàng Văn Vinh, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Nha Trang – Khánh Hòa cho biết, dịch viêm phổi cấp do virus SARS-CoV-2 gây ra đã ảnh hưởng nặng nề đến ngành du lịch Khánh Hòa. Lượng khách đến Khánh Hòa giảm rõ rệt, đặc biệt là khách Trung Quốc. Nhiều khách sạn chủ yếu phục vụ khách Trung Quốc hiện có công suất phòng dưới 20%.
Sự sụt giảm tương tự về du lịch đang lan rộng khắp đất nước, cùng với sự lây lan nhanh chóng của vi rút cúm chết người trên phạm vi toàn cầu. Theo thông tin từ Sở Du lịch TP.HCM, hiện nay phân khúc khách sạn 1 đến 2 sao trên địa bàn thành phố hầu như không có khách đi theo đoàn, khách du lịch đơn thuần; Lượng khách thuê chủ yếu là theo giờ và bán lẻ. Giám đốc một khách sạn 5 sao (quận 1, TP.HCM) cho biết công suất phòng khách sạn cao cấp của thành phố trong tháng 3 chưa đến 30%, tháng 4 và tháng 5 chỉ vài trăm phòng. do lượng khách hủy phòng lớn. Trên toàn quốc, theo thống kê, công suất phòng của toàn ngành khách sạn đã giảm mạnh từ 65-85% tùy từng khách sạn/resort. Đặc biệt những cơ sở đón lượng khách nhiều nhất từ châu Âu, Hàn Quốc, Trung Quốc sẽ sụt giảm mạnh.
Theo xu hướng hiện nay, khách du lịch thường lên kế hoạch đi du lịch và đặt tour trước nhiều tuần lễ để có giá tốt. Điều này giúp các công ty du lịch có dòng tiền mặt dồi dào. Khi khách đã trả trước tiền tour, họ có thể dùng khoản tiền đó để mở một tour khác và cứ thế xoay vòng vốn. Tuy nhiên, như thông lệ, vào cuối năm 2019, các công ty lữ hành đều đã đặt những khoản tiền cọc lớn cho các hãng hàng hàng không, khách sạn và các nhà cung cấp dịch vụ để triển khai chiến lược kinh doanh cho năm 2020.
Khi dịch bệnh bùng phát, các đơn vị lữ hành chỉ có thể hoãn vé máy bay và hoãn sử dụng các dịch vụ đến cuối năm 2020, chứ không thể lấy lại tiền cọc, cũng không thể dời vé và dịch vụ qua năm sau. Vì vậy, khi hơn 90% tour không thành, phải trả lại phần lớn tiền cho khách, doanh nghiệp sẽ mất dòng tiền, cộng với việc đã đặt cọc cho các nhà cung cấp dịch vụ, khiến lượng tiền mặt càng khan hiếm. “Lúc này, nhân lực càng nhiều, số lượng chi nhánh, văn phòng càng lớn, thì áp lực chi phí của doanh nghiệp sẽ càng nặng”, bà Huỳnh Mỹ Yến, Tổng Giám đốc Công ty Nature Tourist, nhận định.
Là đơn vị kết nối các dịch vụ, vốn lưu động của các doanh nghiệp lữ hành rất thấp, giá vốn bán hàng khá cao – thường chiếm xấp xỉ 90% doanh thu thuần, tỉ suất lợi nhuận không quá vài phần trăm. Theo khảo sát của SSI Research, NPM (biên lợi nhuận ròng – tỉ suất lợi nhuận ròng trên doanh thu) mảng lữ hành hằng năm của 3 công ty lớn là Vietravel, Fiditour và BenThanh Tourist chỉ đạt từ 0,8-1%. Với những đặc tính đó, việc đảm bảo ổn định nhân sự từ 3-6 tháng và duy trì dòng vốn chờ đến khi bộ máy hoạt động trở lại là thử thách rất lớn đối với hầu hết doanh nghiệp.
Ở nhiều nước phát triển, các công ty lữ hành buộc phải trích 20-25% lợi nhuận hàng tháng để làm quỹ dự phòng khi khủng hoảng. Tại Việt Nam, Luật Lao động cũng quy định, công ty có lãi phải trích lập quỹ dự phòng vào đầu mỗi năm, tối đa bằng 17% quỹ lương của năm trước liền kề. Tuy nhiên, không phải công ty nào cũng tuân theo luật. Khi dịch COVID-19 qua đi, những công ty hướng đến sự phát triển bền vững và có kế hoạch phòng ngừa rủi ro nghiêm túc sẽ có cơ hội tồn tại và vươn lên dẫn đầu thị trường.
Sàng lọc và chuyển đổi lớn
“Chúng ta không còn gì vì COVID-19, nhưng Chính phủ cần có biện pháp mạnh để ngăn chặn dịch bệnh. Nếu dịch bệnh được kiểm soát và sớm chấm dứt, du lịch sẽ có cơ hội sớm phục hồi”, bà Bùi Viết Thủy Tiên, Giám đốc điều hành Công ty Asian Trails, nhận định. Cũng như nhiều lĩnh vực khác, dịch cúm lịch sử được kỳ vọng sẽ năm 2020 là cơ hội để rà soát các công ty du lịch, buộc nhiều đơn vị phải nhanh chóng chuyển đổi mô hình kinh doanh, ông Lại Minh Duy, Tổng Giám đốc Công ty TST Tourist, cho biết: “Mấy năm trước, thay vì mở chi nhánh, chúng tôi dành ngân sách đó đầu tư nền tảng bán tour và thanh toán trực tuyến, lượng khách từ các tỉnh mua tour qua website của công ty ngày càng tăng, rõ ràng các hãng lữ hành không nhất thiết phải chuyển đổi hoàn toàn sang hoạt động trên nền tảng trực tuyến, nhưng phải tính toán tỷ lệ chuyển đổi sao cho phù hợp, nhằm đạt hiệu quả thương mại cao nhất đồng thời giữ vững uy tín thương hiệu”.
Theo nghiên cứu của Oxford Economics, nếu như năm 2015, có đến 82% cư dân khu vực châu Á – Thái Bình Dương chọn đặt tour truyền thống, thì đến năm 2019, con số này chỉ còn gần 40%. Cũng theo nghiên cứu trên, thị trường du lịch trực tuyến Việt Nam sẽ tăng từ 2,2 tỉ USD năm 2015 lên 9 tỉ USD vào năm 2025. Vì thế, nhiều doanh nghiệp lữ hành Việt đang nỗ lực áp dụng công nghệ mới và ứng dụng di động như thực tế ảo (VR), thực tế ảo tăng cường (AR), ứng dụng tương tác và phần mềm ứng dụng du lịch thông minh bằng công nghệ 360…
Cuối năm 2019, Công ty Lữ hành Saigontourist thành lập phòng bán hàng trực tuyến. “Hiện tại, 80% hoạt động tiếp thị của Saigontourist đã chuyển sang tiếp thị kỹ thuật số. Doanh số trên fanpage tăng mạnh, lượng nhân viên mảng này tăng 200%. Khách đặt hàng online với giá vài chục đến vài trăm triệu đồng. Có khách chốt đơn hàng lên tới 800 triệu đồng cho cả gia đình đi châu Âu. Doanh thu online năm 2019 đạt 110 tỷ đồng”, bà Mai cho biết. Đoàn Thị Thanh Trà, Giám đốc Tiếp thị và Truyền thông Saigontourist.
Tại Công ty Lữ hành Fiditour, mảng trực tuyến hiện đem lại khoảng 15-20% tổng doanh thu. Theo ông Nguyễn Ngọc An, Phó Tổng Giám đốc Công ty, Fiditour còn phải thực hiện hàng loạt chương trình mới, với mức đầu tư lớn hơn khoảng 10 lần so với hiện nay thì mới có thể đưa doanh thu từ mảng trực tuyến chiếm tỉ trọng 40% vào năm 2023.
Một doanh nghiệp non trẻ hơn là VietSense Travel từng trải qua 2 năm chật vật với mô hình offline, nhưng nhờ nhanh chóng chuyển hướng sang trực tuyến từ năm 2013 nên đã thu được những kết quả khá khả quan. Ông Nguyễn Văn Tài, CEO VietSense Travel, cho biết: “VietSense xây dựng và vận hành hơn 100 website du lịch, đồng thời, tăng cường marketing online trên các nền tảng website tương tác 2 chiều, nỗ lực quảng bá dịch vụ và chăm sóc khách hàng qua các mạng xã hội. Năm 2019, doanh thu từ kinh doanh trực tuyến của VietSense Travel chiếm tới 90%”.
Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp lữ hành nào cũng có kỹ năng, vốn để tham gia mảng trực tuyến và chuyển đổi nhanh để bắt kịp môi trường cạnh tranh mới. “Một công ty có quy mô vừa phải như chúng tôi cũng cần đến vài triệu USD để đầu tư cho mảng trực tuyến. Đây là khoản đầu tư lớn nhưng không phải cứ có tiền là làm được mà đòi hỏi doanh nghiệp phải có kỹ năng vì đây là một môi trường hoàn toàn khác”, bà Thủy Tiên, Công ty Asian Trails, cho biết.
Tình hình dịch bùng phát và đang lan nhanh ra khắp thế giới khiến ngành du lịch Việt Nam khó có thể hy vọng hồi phục trong nửa cuối năm 2020, cũng như khó lòng đạt mục tiêu phấn đấu đón khoảng 20,5 triệu lượt khách quốc tế trong năm 2020. Các chuyên gia kinh tế đã cảnh báo về một đợt suy thoái kinh tế nghiêm trọng, kéo dài trên toàn cầu sau dịch bệnh. Nhu cầu du lịch sau dịch bệnh chắc sẽ giảm sút do một bộ phận không nhỏ dân chúng trên thế giới đã nghèo đi đáng kể. Lúc này, một chiến lược phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa chính quyền và các doanh nghiệp liên Khoảng 3-4 năm gần đây, du lịch Việt Nam có tốc độ tăng trưởng ngoạn mục vào hàng cao nhất thế giới, trung bình trên 20%/năm. Năm 2019, Việt Nam đón hơn 18 triệu lượt khách. Câu hỏi được nhiều DN đặt ra là làm thế nào khi hết dịch vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng như cũ. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia trong ngành, khi dịch bệnh qua đi cũng là lúc các hãng đẩy mạnh truyền thông marketing, bán hàng.
“Việt Nam là điểm đến an toàn”, các gói kích cầu có thể được tung ra để khuyến khích du khách đăng ký tour trước. Về mặt Nhà nước, các cơ quan chủ quản cần đóng vai trò là cầu nối để kết nối du lịch, hàng không, khách sạn, nhà hàng, vận tải, khu vui chơi giải trí… Sản phẩm tour trọn gói kích cầu du lịch. Ngoài ra, Nhà nước cũng phải miễn lệ phí cấp thị thực cho các thị trường trọng điểm, tiềm năng, có khả năng chi trả cao để thu hút khách du lịch từ các thị trường này. Đồng thời, có chính sách miễn giảm thuế cho các công ty trong lĩnh vực du lịch.
Theo ông Nguyễn Công Hoan, Tổng Giám đốc Công ty HanoiRedtours, doanh nghiệp rất cần thông tin chính xác về dịch bệnh để có kế hoạch khai thác thị trường và phục hồi từng thị trường. Đồng thời, cũng cần biết rõ nguồn lực mà Nhà nước hỗ trợ để kết hợp với nguồn lực của doanh nghiệp, hiệp hội nhằm tổ chức chương trình kích cầu sau dịch bệnh. Còn Chủ tịch Hội đồng Tư vấn du lịch Trần Trọng Kiên cho rằng, du lịch Việt Nam nên đẩy mạnh xúc tiến qua mạng xã hội, xúc tiến trực tuyến, bởi vì trong thời gian có dịch, người ta càng lên mạng nhiều để tìm kiếm thông tin. Ông Guillermo Pantoja, Tổng Giám đốc khách sạn Meliá Hanoi, cho rằng: “Với các nỗ lực tích cực để quảng bá Việt Nam là một điểm đến an toàn của Tổng cục Du lịch, chúng tôi tin rằng ngay sau khi tình hình dịch bệnh trên thế giới khả quan hơn, du lịch Việt Nam sẽ dần dần thu hút lại một lượng lớn du khách trong và ngoài nước để vực dậy ngành kinh tế không khói và tiếp tục phát triển bền vững”.
Nguồn:https://nhipcaudautu.vn/chuyen-de/du-lich-di-ve-so-0-3333764/